Ngày 03/12/2004 Quốc hội đã ban hành Luật số 30/2004/QH11 về Xuất bản. |
Luật này bao gồm .. Chương, điều Theo các quy định tại Luật này, Nhà nước
bảo đảm quyền phổ biến tác phẩm dưới hình thức xuất bản phẩm thông qua nhà
xuất bản và bảo hộ quyền tác giả. Nhà nước không kiểm duyệt tác phẩm trước
khi xuất bản… Điều kiện thành lập nhà xuất bản: có người lãnh đạo nhà
xuất bản và đội ngũ biên tập viên đủ tiêu chuẩn, trong các chức danh lãnh
đạo nhà xuất bản phải có ít nhất một người hoạt động trong lĩnh vực xuất bản
từ ba năm trở lên… Hằng năm, nhà xuất bản phải đăng ký kế hoạch xuất bản
với Bộ Văn hoá - Thông tin trước khi xuất bản… Đối với sách dịch, mặt
sau của trang tên sách phải ghi đầy đủ tên nguyên bản, tác giả, nhà xuất bản
nước ngoài, năm xuất bản, nếu sách dịch từ ngôn ngữ khác với ngôn ngữ nguyên
bản phải ghi rõ ngôn ngữ và tên người dịch bản đó… Văn phòng đại diện
của nhà xuất bản nước ngoài tại Việt Nam được giới thiệu về nhà xuất bản,
sản phẩm của nhà xuất bản, xúc tiến các giao dịch về bản quyền và xuất bản
phẩm theo quy định của pháp luật Việt Nam… Những xuất bản phẩm lưu hành
hợp pháp được đưa lên mạng thông tin máy tính phải do nhà xuất bản thực hiện…
Luật có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2005.
|
Ngày 08/12/2004 Bộ Tài chính - Tổng LĐLĐ Việt Nam. đã ban hành Thông tư liên
tịch số 119/2004/TTLT-BTC-TLĐLĐVN về việc hướng dẫn trích nộp kinh phí công
đoàn | Theo Thông tư liên tịch này, Bộ Tài
chính và Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam hướng dẫn: cơ quan hành chính
sự nghiệp thực hiện trích nộp kinh phí công đoàn bằng 2% quỹ tiền lương
theo ngạch, bậc và các khoản phụ cấp lương. Các doanh nghiệp trích, nộp
kinh phí công đoàn bằng 2% quỹ tiền lương, tiền công phải trả cho người
lao động và các khoản phụ cấp lương… Các khoản phụ cấp lương làm căn
cứ để trích, nộp kinh phí công đoàn phải thống nhất với khoản phụ cấp
làm căn cứ trích nộp bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế gồm: phụ cấp chức
vụ, phụ cấp chức vụ bầu cử, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp thâm niên, phụ
cấp khu vực… Thông tư liên tịch này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ
ngày đăng Công báo. |
Ngày 12/03/2004 Quốc hội đã ban hành Luật số 28/2004/QH11 về Điện lực |
Luật này quy định về quy hoạch và đầu tư phát triển điện lực; tiết kiệm
điện; thị trường điện lực; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân hoạt
động điện lực và sử dụng điện, bảo vệ trang thiết bị điện, công trình
điện lực và an toàn điện. Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân
hoạt động điện lực, sử dụng điện hoặc có các hoạt động khác liên quan
đến liện lực tại Việt nam. Theo đó, Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích
tiết kiệm điện bằng các chính sách sau đây: Khuyến khích sản xuất trong
nước hoặc nhập khẩu, áp dụng ưu đãi về thuế đối với sản phẩm thuộc danh
mục sản phẩm tiết kiệm điện và trang thiết bị, vật tư, dây chuyền công
nghệ nhập khẩu để sản xuất sản phẩm tiết kiệm điện… Bên mua điện có
quyền yêu cầu bên bán điện xem xét lại số tiền điện phải thanh toán. Khi
nhận được yêu cầu của bên mua điện, bên bán điện có trách nhiệm giải
quyết trong thời hạn mười lăm ngày. Trường hợp không đồng ý với cách
giải quyết của bên bán điện, bên mua điện có thể đề nghị cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền tổ chức việc hoà giải. Trong trường hợp không đề nghị
hoà giải hoặc hoà giải không thành, bên mua điện có quyền khởi kiện tại
Toà án theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Trong thời gian
chờ giải quyết, bên mua điện vẫn phải thanh toán tiền điện và bên bán
điện không được ngừng cấp điện… Trong trường hợp bên mua điện không
trả tiền điện và đã được bên bán điện thông báo ba lần thì sau mười lăm
ngày, kể từ ngày thông báo lần đầu tiên, bên bán điện có quyền ngừng cấp
điện. Bên bán điện phải thông báo thời điểm ngừng cấp điện cho bên mua
điện trước 24 giờ và không chịu trách nhiệm về thiệt hại do việc ngừng
cấp điện gây ra… Khách hàng sử dụng điện ở khu vực biên giới được
mua điện trực tiếp với nước ngoài không qua hệ thống điện quốc gia nhưng
phải bảo đảm các tiêu chuẩn an toàn điện và các quy định khác của pháp
luật có liên quan… Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2005. |
Ngày 12/03/2004 Quốc hội đã ban hành Luật số 27/2004/QH11 về Cạnh tranh |
Phạm vi điều chỉnh của Luật quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hành
vi cạnh tranh không lành mạnh, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh
tranh, biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh canh. Luật này áp
dụng đối với : - Tổ chức, cá nhân kinh doanh (sau đây gọi chung là
doanh nghiệp) bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch
vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc
quyền nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt nam; -
Hiệp hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam. Theo đó, cơ quan quản lý
nhà nước không được thực hiện những hành vi sau đây để cản trở cạnh
tranh trên thị trường: Buộc doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải
mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ với doanh nghiệp được cơ quan này
chỉ định, trừ hàng hoá, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước hoặc
trong trường hợp khẩn, Phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp, ép buộc
các hiệp hội ngành nghề hoặc các doanh nghiệp liên kết với nhau nhằm
loại trừ, hạn chế, cản trở các doanh nghiệp khác cạnh tranh trên thị
trường… Cấm các thoả thuận hạn chế cạnh tranh khi các bên tham gia
thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên…
Thoả thuận hạn chế cạnh tranh được miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng một
trong các điều kiện sau đây nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu
dùng: thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng
hoá, dịch vụ, Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán
nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá, Tăng cường sức cạnh
tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa và của doanh nghiệp Việt Nam trên thị
trường quốc tế… Doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị
trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có
khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể… Cấm doanh nghiệp,
nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện các hành vi
sau đây: bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại
bỏ đối thủ cạnh tranh, áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp
lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng, áp
đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất
bình đẳng trong cạnh tranh… Cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết
hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên
thị trường liên quan… Cấm doanh nghiệp thực hiện các hoạt động quảng
cáo sau đây: so sánh trực tiếp hàng hoá, dịch vụ của mình với hàng hoá,
dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác, Bắt chước một sản phẩm quảng
cáo khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng, Đưa thông tin gian dối hoặc gây
nhầm lẫn cho khách hàng…
|
Ngày 12/03/2004 Quốc hội đã ban hành Luật số 29/2004/QH11 về Bảo vệ và Phát
triển rừng | Luật này áp dụng đối với cơ quan
nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài, tổ chức, các nhân nước ngoài có liên quan đến việc bảo
vệ và phát triển rừng tại Việt Nam. Chính phủ sẽ qui định và xem xét
cụ thể từng dự án, về những vấn đề liên quan để cho thuê rừng tự nhiên
nhằm vừa phát huy tiềm năng của rừng dựa trên nguyên tắc bảo vệ và phát
triển rừng bền vững, vừa bảo đảm quốc phòng, an ninh… Cộng đồng dân
cư thôn có cùng phong tục, tập quán, có truyền thống gắn bó cộng đồng
với rừng về sản xuất, đời sống, văn hoá, tín ngưỡng và có khả năng quản
lý rừng có thể sẽ được trao quản lý một số rừng phù hợp với đời sống của
cộng đồng, khi được nhận rừng, bên cạnh những quyền được hưởng có những
nghĩa vụ mà cộng đồng phải thực hiện… Các hoạt động bảo vệ và phát
triển rừng phải bảo đảm phát triển bền vững về kinh tế, xã hội, môi
trường, quốc phòng, an ninh, phù hợp với chiến lược phát triển kinh
tế-xã hội, phát triển lâm nghiệp, đúng qui hoạch, kế hoạch bảo vệ và
phát triển rừng của cả nước và địa phương, tuân theo qui chế quản lý
rừng do Thủ tướng Chính phủ qui định… Nhà nước khuyến khích các tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân nhận đất phát triển rừng ở những vùng đất
trống, đồi núi trọc, ưu tiên phát triển trồng rừng nguyên liệu phục vụ
các ngành kinh tế. Nhà nước có chính sách phát triển thị trường lâm sản
và một số hoạt động sản xuất lâm nghiệp và bảo hiểm rừng trồng… Luật
này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 04 năm 2005. |
Ngày 12/07/2004 Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số
94/2004/QĐ-BTC Về việc quy định chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí
cấp phiếu lý lịch tư pháp | Theo đó, Bộ
trưởng Bộ Tài chính quyết định: công dân Việt Nam và người nước ngoài
khi nộp đơn và được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp Phiếu lý
lịch tư pháp phải nộp lệ phí cấp phiếu lý lịch tư pháp theo mức thu là
100.000 đồng/lần cấp/người, riêng công dân Việt Nam cư trú tại các xã
đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa áp dụng mức thu lệ phí
cấp phiếu lý lịch tư pháp 50.000 đồng… Cơ quan thu lệ phí được trích
20% tổng số tiền lệ phí thực thu được để chi phục vụ cho công tác thu lệ
phí… Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày đăng Công
báo.
|
Ngày 14/12/2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 203/2004NĐ- CP về việc
mức lương tối thiểu chung | Theo đó, mức
lương tối thiểu chung (MLTTC) được quy định là 290.000đ/tháng - được coi
là MLTTC cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện
lao động bình thường. Mức lương này sẽ được điều chỉnh tuỳ theo mức tăng
trưởng kinh tế, chỉ số giá sinh hoạt và cung cầu lao động trong từng
thời kỳ… MLTTC này không chỉ được áp dụng cho các cơ quan nhà nước,
đơn vị sự nghiệp, lực lượng vũ trang, các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị-xã hội, các công ty hoạt động theo Luật DN và Luật DN nhà
nước, các hợp tác xã... mà còn áp dụng để tính trợ cấp thôi việc cho số
năm làm việc từ 2004 trở đi đối với lao động dôi dư, người thôi việc do
tinh giản biên chế theo một số quy định hiện hành… Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội sẽ công cố MLTTC cho từng thời kỳ, hệ số điều
chỉnh tăng thêm so với MLTTC được áp dụng cho các Cty hoạt động theo
Luật DN nhà nước, Bộ Nội vụ chủ trì xây dựng hệ số điều chỉnh tăng thêm
so với MLTTC áp dụng cho các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, lực
lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chính trị-xã hội để trình Chính
phủ thông qua… Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày
đăng Công báo.
|
Ngày 14/12/2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 206/2004/NĐ- CP về quản
lý lao động, tiền lương và thu nhập trong các Công ty Nhà nước |
Theo đó, Công ty Nhà nước được áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm để làm
cơ sở tính đơn giá tiền lương không được vượt quá 2 lần so với mức lương
tối thiểu chung. Khi áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm, Công ty phải
đảm bảo đã nộp ngân sách đầy đủ, mức tăng tiền lương bình quân phải thấp
hơn mức tăng năng suất lao động bình quân và lợi nhuận kế hoạch không
thấp hơn so với lợi nhuận thực hiện của năm trước liền kề… HĐQT,
tổng giám đốc, giám đốc sẽ không được nâng lương hoặc phải hạ bậc lương,
không được hưởng lương theo hệ số điều chỉnh, không được thưởng khi để
công ty lâm vào một trong 5 tình trạng sau (chưa đến mức truy cứu trách
nhiệm hình sự): lỗ, mất vốn Nhà nước, quyết định dự án đầu tư không hiệu
quả, không thu hồi được vốn đầu tư, không trả được nợ, không bảo đảm
tiền lương và các chế độ khác cho người lao động, để xảy ra sai phạm về
quản lý vốn, tài sản, chế độ kế toán, kiểm toán và các chế độ khác do
Nhà nước quy định, lỗ 2 năm liên tiếp hoặc không đạt tỉ suất lợi nhuận
trên vốn 2 năm liên tiếp hoặc lỗ lãi đan xen nhau nhưng không khắc phục
được… Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công
báo. |
Ngày 14/12/2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 207/2004/NĐ- CP quy định
chế độ tiền lương, tiền thưởng và chế độ trách nhiệm đối với các thành viên
hội đồng quản trị, tổng giám đốc, giám đốc Công ty Nhà nước |
Nghị định quy định: tiền lương, phụ cấp cho các đối tượng trên được tính
căn cứ vào việc thực hiện lợi nhuận và năng suất lao động của công ty
theo nguyên tắc: lợi nhuận và năng suất lao động tăng thì tiền lương,
phụ cấp tăng… Quỹ tiền lương dành cho các đối tượng này xác định
theo năm, tháng và được tạm ứng tối đa bằng 80% quỹ tiền lương kế hoạch.
Phần còn lại sẽ được thanh toán vào cuối năm theo mức độ hoàn thành
nhiệm vụ. Quỹ tiền lương này không nằm trong đơn giá tiền lương nhưng
được hạch toán vào giá thành hoặc chi phí kinh doanh… Nếu để công ty
lỗ, để mất vốn nhà nước... sẽ không được nâng lương hoặc bị hạ bậc
lương… Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công
báo.
|
Ngày 14/12/2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 208/2004/NĐ- CP về việc
điều chỉnh lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã | Theo đó,
Nghị định quy định: các đối tượng như: CB, CC, VC, lực lượng vũ trang,
người làm công tác cơ yếu hưởng lương hưu hàng tháng, CC, VC và người
lao động hưởng lương hưu hàng tháng nhưng vừa có thời gian hưởng tiền
lương theo thang, bảng lương nhà nước quy định vừa không theo thang,
bảng lương này, công nhân cao su đang hưởng trợ cấp hàng tháng, một số
đối tượng công nhân, viên chức và cán bộ xã, phường, thị trấn hưởng trợ
cấp mất sức lao động hàng tháng đã hưởng lương hưu trước ngày 01/10/2004
sẽ được tăng thêm mức lương hưu, trợ cấp hiện hưởng 10%. Thời gian được
tăng là từ 01/10/2004 đến ngày 30/9/2005… Với người nghỉ hưu từ ngày
01/10/2004 đến ngày 30/9/2005 thì lương hưu được điều chỉnh một lần khi
nghỉ hưu với mức tăng tương ứng với thời điểm nghỉ hưu… Nghỉ hưu
tháng 10/2004 sẽ được điều chỉnh tăng thêm 10%, tháng 11/2004 tăng thêm
9,5%, tháng 12 là 9%... đến tháng 7/2005 được điều chỉnh tăng thêm là
5,5%, tháng 8/2005 là 5% và tháng 9/2005 là 4,5%… Nghị định này có
hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. |
|